Truyện ngắn Mưa Đỏ là một tác phẩm giàu chất hiện thực và lãng mạn cách mạng, khai thác sâu sắc về sự khốc liệt của chiến tranh bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 cùng với những dòng tâm trạng phức tạp của những người lính và những người thân yêu của họ. Thông qua các đoạn trích và lời đối thoại, tác giả Chu Lai đã gửi gắm nhiều triết lý sâu sắc và những câu nói giàu tính biểu tượng.

Dưới đây là tổng hợp những trích dẫn và câu nói tiêu biểu trong tác phẩm:

I. Trích dẫn về Chiến tranh, Hy sinh và Lịch sử

Các trích dẫn này thể hiện sự đối lập giữa lý tưởng và thực tại tàn khốc của chiến trường, cũng như ý nghĩa lịch sử của cuộc chiến:

Về bản chất và hậu quả của chiến tranh:

  • “Dù ở hai chiến tuyến khác nhau, hầm hè sát hại nhau nhưng nếu phải ngã vào lòng đất thì câu cuối cùng của cả hai bên bao giờ cũng là hai tiếng “Mẹ ơi!…””
  • “Chiến tranh dù khốc liệt đến mấy thì nó vẫn có những khoảng lặng bất ngờ không tin được.”
  • Cường thừa nhận rằng đối phương trong khoảnh khắc sinh tồn “…không hiện hình bằng da bằng thịt mà nó chỉ tồn tại như một bức tường xám xịt, tanh nồng, khét lẹt. Đục thủng, phá vỡ được bức tường ấy thì sống mà để nó đè lên là chết, đơn giản vậy thôi.”
  • Bác sĩ Lê mô tả thực tại ở Thành cổ: “Quá nhỏ! Ba mươi ca thì được nhưng nếu ba trăm ca hay hơn nữa, mà điều đó rất có thể xảy ra thì phải xếp chồng lên nhau như xếp cá mà lại không được làm đông lạnh.”
  • Bác sĩ Lê nhận định thẳng thắn: “Mà nhìn đúng bản chất sự vật bao giờ cũng khó nghe.”
  • Hải Gù cho rằng: “Thế cũng mát, còn hơn chết cháy ở đây,” khi nói về cái chết của Tú trên sông.
  • Khi mô tả Thành cổ sau 79 ngày, Bình lẩm bẩm: “Bảy mươi chín ngày dài bằng bảy mươi chín thế kỷ.”

Về ý nghĩa và chiến lược của Thành cổ:

  • Tư lệnh Lê Trọng nhận định: “Đây là một cái quyết chiến điểm cho toàn cuộc, có thể thành có thể bại nhưng chắc chắn ta phải trả giá rất đắt.”
  • Ông cũng nói: “Thành cổ, Trí Bưu, Nhan Biều, Tri Tôn… Rồi đây tất cả sẽ trở thành những địa danh lịch sử.”
  • Tư lệnh Mặt trận giải thích ý nghĩa chiến lược của Thành cổ: “…từng giờ từng phút nó sẽ tác động rất mạnh đến tư thế của chúng ta trên bàn Hiệp định Paris sắp tái họp và tư thế ấy, nếu giữ được, nó sẽ tạo một nút nhấn bản lề để đưa đến thắng lợi toàn cuộc.”
  • Trung đoàn trưởng Vũ Thành than thở: “Cá nằm trên thớt. Nói gì thì nói đây cũng chỉ là cái thế cá nằm trên thớt, điều tối kỵ trong binh pháp…”
  • Trích lời một nhà báo Anh (được Cố vấn dẫn lại): “Quảng Trị hay Thành cổ, trong một cuộc chiến tranh tổng lực, mảnh đất nghèo và nhỏ ấy không nói lên điều gì, thậm chí rất vô nghĩa, nhưng nó sẽ là tất cả nếu như giữ được, Hà Nội sẽ chứng minh được một điều là họ hoàn toàn có đủ năng lực làm chủ được một vùng đất.”

Về tư tưởng chỉ huy và sự hy sinh:

  • Tư lệnh không thích khẩu hiệu: “Mình không thích cái khẩu lệnh [bằng mọi giá] này lắm, có cái gì như là quen mồm, là câu cửa miệng mà khi nói ra người ta chưa thật hiểu hết cái nội dung bên trong. Tôi luôn tâm đắc lời của anh Văn, chiến thắng nhưng không có nghĩa thỏa sức phung phí xương máu của đồng đội.”
  • Tư lệnh cảm thán khi nói về Cường: “Chiến tranh ác nghiệt… Một chàng trai như thế này mà phải làm mồi cho cái dạ dày không bao giờ biết no của nó thì… Ác nghiệt thật!”
  • Trung đoàn trưởng Vũ Thành chấp nhận rút quân để “bảo toàn được danh dự”, bởi “Cái cá nhân của mình trong tình thế này không còn có giá trị gì hết”.

II. Trích dẫn về Triết lý sống và Lòng yêu nước

Những câu nói này làm rõ động cơ, sự phức tạp trong tư tưởng và phẩm chất của người lính hai bên chiến tuyến:

Về phẩm chất người lính và lòng yêu nước:

  • Cường, khi quyết định nhập ngũ, nghĩ: “…cái sự học là cả đời, học lúc nào cũng được, còn có nhiều dịp để học… lúc này cả nước theo lệnh tổng động viên ra đi hết, mình ở lại không đành.”
  • Cường tin rằng: “Cách sống của anh không phải do anh chọn mà hình như lịch sử nước mình, con người nước mình nó thế, có muốn làm khác cũng không được.”
  • Phạm Lân (Chính ủy) quyết định rút lui: “Cả cuộc đời binh nghiệp tôi chưa một lần vi phạm kỷ luật chiến đấu, nhưng lần này, trước những người còn sống và những người đã mất, tôi chấp nhận.”
  • Cường khước từ việc chuyển ra Bắc: “Anh nói em cám ơn nhưng em không thể đi lúc này, không thể, bạn bè em còn nằm cả trong đó.”
  • Cường ghi trong nhật ký: “Anh hùng cũng sợ chết, thậm chí là sợ chết nhất, nhưng biết vượt qua được nỗi sợ chết thì là anh hùng.”

Về lý tưởng và sự thật của Hải Gù:

  • Hải Gù: “Lòng yêu nước là của lịch sử, của tổ tiên để lại, chả phải độc quyền của bố con thằng nào.”
  • Hải nói về mục đích nhập ngũ: “mình muốn chứng tỏ một điều là lòng yêu nước và nghị lực làm người không có liên quan gì đến thành phần lý lịch cả.”
  • Hải khẳng định trước kẻ thù: “Chúng tôi bỏ tất cả vào đây không phải vì chiếc lon hàm trên ve áo. Nếu chỉ vì thế thì cái trận địa này đã bị bỏ trống từ lâu rồi.”
  • Lời hô vang cuối cùng của Hải: “Chiến thắng cuối cùng sẽ thuộc về chúng ta, những người lính bảo vệ Thành cổ. Vĩnh biệt…”

Về phê phán chủ nghĩa anh hùng lãng mạn:

  • Sen phê phán sự mơ hồ của sinh viên: “Tóm lại, muốn có hiệu quả chiến đấu thực sự thì ngay từ lúc này, ta phải chôn vùi xuống ba tấc đất tất cả những mơ hồ về địch ta do cuộc sống học đường để lại.”
  • Sen cảnh báo Cường về hành động nhân đạo: “Cuộc chiến một mất một còn này, mọi hành động nhân đạo chung chung đều là tự sát.”
  • Cường đáp lại Sen: “Cuộc sống và tính mạng của người lính là thật nhất mà chúng ta còn không tiếc thì hà cớ gì phải tránh né những sự thật râu ria khác.”

Triết lý của lính Việt Nam Cộng hòa (Quang):

  • Quang nói về lý do ra chiến trường: “Để được sống một lần cho ra sống. Tôi ngán cái cuộc sống nhờ nhợ, tanh tanh mùi cá ươn này quá xá rồi.”
  • Quang muốn đối đầu với đối phương đã “…khiến cho người Mỹ, một loại người ngạo mạn nhất thế giới phải kiêng dè, hãi sợ.”
  • Quang tin rằng: “Ở đời có những kẻ thù làm ta kính trọng nhưng lại có những thằng bạn làm mình coi khinh, cậu có thấy điều đó không?”

III. Trích dẫn về Tình yêu, Tình đồng đội và Tình mẹ

Tình cảm là điểm tựa tinh thần, là yếu tố khiến cuộc chiến tranh khốc liệt trở nên nhân văn hơn:

Về tình yêu và sự lãng mạn trong chiến tranh:

  • Cường nhận ra: “Giờ mới thấm câu: đói tức là ngon, yêu tức là đẹp.”
  • Cường nói về sự có mặt của phụ nữ trên chiến trường: “Người ta bảo chiến tranh không nên có khuôn mặt đàn bà nhưng thử hỏi đêm như đêm nay, nếu không có khuôn mặt kia, dáng hình kia thì chuyện sang sông rồi chuyện chiến tranh sẽ khô khan kém phần lãng mạn đi biết chừng nào!”
  • Cường thừa nhận với Hồng: “Em biết không, trong một góc khuất nào đó, anh lại thầm cám ơn bom đạn đã cho anh gặp được em, người con gái lạ lùng mà ở vào hoàn cảnh bình thường, chắc chắn có đi tìm mỏi mắt cũng không ra.”
  • Hồng nhắc Cường về lời thề thốt: “Tập tục ở quê em bảo rằng nếu một người con gái đã nhìn thấy, đã chạm vào… cái ấy của người con trai thì người con trai ấy coi như đã là chồng mình rồi.””
  • Lời thề của Hồng khi Cường đi đánh chặn: “Anh Cường, anh còn nhớ lời em nói hôm ấy không? Giờ đây, chồng ở đâu vợ ở đấy.”
  • Trong thư tuyệt mệnh, Tạ nói với vợ: “Vợ đẹp là vợ thiên hạ, ông bà dạy cấm có sai chữ nào.”. Ông cũng dặn vợ: “Sau này có ai đem lòng thương em thật lòng, em cứ gắn bó với người ta, như vậy ở dưới kia anh cũng mát lòng.”

Về tình đồng đội và tình người:

  • Cường tha chết cho lính dù: “Mày không đáng phải chết thế này. Cút đi!”
  • Cường nói về tình đồng đội: “…chính tình nghĩa tử sinh đồng đội, những ký ức sâu sắc nằm gai nếm mật đã kết dính chúng con lại, đã hà hơi tiếp sức để cho chúng con biết vượt lên tất cả để đứng vững chứ chưa hẳn đã là những gì thuộc về lý tưởng, hoài bão hay mục đích chính trị xa xôi nào.”
  • Khi thủy táng Tạ, Cường khấn: “Mong anh sống khôn chết thiêng phù hộ cho chúng tôi, những thằng em còn sống tiếp tục hoàn thành công việc của anh để lại. Lời nói này thay cho nén tâm nhang xin được thắp lên mộ anh…”
  • Lời thơ cảm động khi thủy táng các chiến sĩ trên sông Thạch Hãn: “Đò xuôi Thạch Hãn ơi chèo nhẹ / Đáy sông còn đó bạn tôi nằm…”
  • Quang nói về lính dù Tâm: “Bắn một đứa con gái là hèn, bắn một đứa con gái trên tay không tấc sắt còn hèn hơn.”
  • Khi Cường bị thương nặng, lời cuối cùng anh nói: “Hồng… Tập giấy để trong người… em gửi về cho mẹ… Anh… anh yêu em… Mẹ ơi!”

Về tình mẹ và sự chờ đợi:

  • Mẹ Cường khấn trước bàn thờ: “Trở về với tôi, chỉ cần trở về với tôi, đó là điều quan trọng nhất…”
  • Người mẹ nhận ra: “Nỗi khổ của sự chờ đợi đêm đêm tựa cửa mà đâu có hay rằng đứa con rứt ruột của mình đẻ ra sẽ không bao giờ trở về nữa khi xương cốt đã tan biến dưới vòng xích vô cảm của kẻ thù!”
  • Cường coi mẹ là biểu tượng tinh thần: “Vì mẹ không chỉ là mẹ, mà trong những phút giây hiểm nghèo nhất, đối với con, mẹ còn là Hà Nội, là quê hương, là Tổ quốc.”
  • Cố vấn tối cao chia sẻ với mẹ Cường: “Xương máu nhân dân đã đổ xuống quá nhiều rồi, để đổ thêm nữa là chúng ta có tội.”

Kết luận

Những trích dẫn trên từ Mưa Đỏ khắc họa chiến tranh không chỉ là cuộc đấu tranh về lý tưởng mà còn là sự va chạm trần trụi của những bản năng sinh tồn và lòng tự trọng cá nhân. Tác phẩm làm nổi bật:

  1. Sự khốc liệt phi thường và phi lý của chiến trường Thành cổ: Mật độ bom đạn chưa từng có trong lịch sử đã đẩy con người đến giới hạn của sự chịu đựng, nơi ranh giới giữa sống và chết, anh hùng và hèn nhát trở nên mong manh.
  2. Sự phức tạp của động cơ và tư tưởng người lính: Các nhân vật như Cường và Hải Gù chiến đấu không chỉ vì khẩu hiệu mà còn vì những lý do cá nhân sâu kín như giữ gìn lòng tự trọng, rửa oan cho gia đình hay vì không muốn “ánh mắt [người yêu] nhìn anh mỗi sáng ra sẽ lùn đi”. Ngay cả nhân vật phía bên kia như Thiếu úy Quang cũng thể hiện sự kính trọng đối với kẻ thù can trường và sự chán ghét đối với sự tha hóa của chế độ mình.
  3. Tầm quan trọng của tình cảm con người: Giữa hoang tàn, tình đồng đội (Sen, Tạ, Bình, Hải, Tú) trở thành sức mạnh phi chính trị giữ chân người lính. Tình mẫu tử là điểm tựa thiêng liêng (“Trở về với tôi, chỉ cần trở về với tôi, đó là điều quan trọng nhất…”), và tình yêu là nét lãng mạn cần thiết để cuộc chiến không trở nên “khô khan”.
  4. Sự gắn kết giữa chiến trường và bàn đàm phán: Thành cổ là “quyết chiến điểm” nhằm tạo “nút nhấn bản lề” cho Hiệp định Paris, nơi xương máu của người lính bảo vệ danh dự dân tộc, để cho “chân lý được tồn tại”.

Nét đặc sắc của tiểu thuyết thể hiện qua những trích dẫn là việc tác giả không né tránh sự mâu thuẫn, khắc họa chiến tranh bằng sự chân thật tàn nhẫn, nhưng đồng thời vẫn tôn vinh sự cao thượng, trí tuệ và phẩm giá con người Việt Nam.

🔗 Xem Sách | PDF